Thiên Kiếp Mi - Đằng Bình - Quyển 4 - Chương 36: Nhà Lao Ngựa Trắng 01
Tất cả mọi thứ từng nằm dưới đáy khe sâu đều đã tan thành mây khói, cát đá vách núi đều cháy sém đen sì nứt nẻ, cây cối biến thành than, mấy mảnh vải vụn của lều trại treo trên đầu cành nám đen, phất phơ theo gió, trông hoang vắng tiêu điều. Từ nơi này chỉ có một con đường rời đi, Đường Lệ Từ đưa Tiểu Đào Hồng cho Ngọc Đoàn Nhi, muốn nàng bảo vệ ba người an toàn. Còn y men theo con đường kia đi về phía trước một đoạn, rồi nhanh chóng trở về.
Phụng Phụng vừa thấy y liền ngoảnh đầu chui vào lòng A Thùy, không muốn nhìn y nữa. Đường Lệ Từ cứ như chưa từng để Phụng Phụng vào mắt, mỉm cười nói, “Con đường phía trước quá nhiều dấu chân ngựa, muốn tìm một dấu móng rõ ràng e rằng rất khó, tiêu tốn rất nhiều thời gian. Nhưng chỉ có một con đường, cứ chạy đến ngã ba đi, nếu ngựa của Phong Lưu Điếm chia làm hai nhóm thì có lẽ sẽ tìm ra manh mối.”
“Vậy thì đến ngã ba đi.” Ngọc Đoàn Nhi không hêg nghĩ ngợi, “Tìm ra xe ngựa là có thể tìm được Thẩm đại ca rồi.”
Đường Lệ Từ nhẹ nhàng nói, “Nhưng phía trước là đường núi, một con đường núi dài hun hút, đi qua rừng rậm và suối khe, e rằng A Thùy cô nương và Lâm công tử…” Ánh mắt y thong thả lướt qua hai người rồi dừng lại trên mặt A Thùy, “Cô nương vẽ lại hoa văn trên vó ngựa cho ta xem, sau đó ta đưa các ngươi về.”
Lâm Bô lập tức lắc đầu, “Trèo đèo lội suối là chuyện thường đối với ta.”
A Thùy trầm ngâm giây lát rồi lắc đầu, “Có lẽ nhìn thấy dấu chân, ta sẽ nhớ ra càng nhiều manh mối, có thể giúp ngươi tìm ra hang ổ hiện giờ của Phong Lưu Điếm. Dù sao ta cũng ở Phong Lưu Điếm vài tháng rồi, Đông công chúa Tây công chúa, thậm chí Dư Khấp Phượng, ta đều rất quen thuộc.”
“Nếu đã vậy thì làm thế này đi.” Đường Lệ Từ khẽ mỉm cười, “Ngọc cô nương cõng cô, ta cõng Lâm công tử, như vậy hành động sẽ tương đối dễ dàng.”
A Thùy thoáng ngẩn ngơ, Ngọc Đoàn Nhi đã vỗ tay cười nói, “Đúng rồi, làm vậy chúng ta cũng không cần chờ hai người thong thả đi.”
A Thùy gật đầu, dùng đai lưng Phụng Phụng buộc chặt ra sau lưng mình. Ngọc Đoàn Nhi cõng nàng, Đường Lệ Từ cõng Lâm Bô, hai người dùng thân pháp phóng đi theo con đường mòn trong rừng.
Con đường mòn lầy lội trải dài hun hút, rải rác những dấu chân ngựa. Cũng có cả vết bánh xe, nhưng trên vết bánh xe có dấu chân ngựa đè lên, trên dấu chân ngựa này lại có dấu chân ngựa khác, nên căn bản không thể phân rõ dấu vết của một con ngựa hay một cỗ xe nào. Nhưng nhìn vào dấu vết để lại, có thể thấy rất nhiều binh mã đã chạy thoát từ nơi đây.
Đuổi theo hơn ba dặm, Ngọc Đoàn Nhi đã bắt đầu thở dốc. Đường Lệ Từ đi chậm lại một chút, tay phải đỡ sau lưng Ngọc Đoàn Nhi, đẩy nàng lao nhanh về phía trước. Cõng người chạy chủ yếu dựa vào lực eo, Ngọc Đoàn Nhi được y đỡ lưng, tinh thần phấn chấn tiếp tục chạy về phía trước. Hai người chạy một mạch không ngừng, vượt qua một ngọn núi thì đến ngã ba của con đường núi.
Nơi ngã ba, vết móng và dấu chân người vẫn đi về cùng một hướng. Dấu chân thưa thớt hơn, hẳn là có một số người đã leo lên cây, mà dấu xe ngựa vẫn rõ ràng dễ phân biệt. Giữa những dấu móng rải rác khắp nơi, có vài dấu móng lớn hơn một chút so với bình thường, mép trước của móng in lại một đường vân giống hoa mà không phải hoa, giống cỏ mà không phải cỏ. A Thùy gật đầu với Đường Lệ Từ, đó là dấu chân hai con ngựa cao lớn trắng như tuyết, đây chính là xe ngựa của Bạch Tố Xa.
Con đường càng ngày càng rộng, dấu chân ngựa của Bạch Tố Xa in lại rõ rang. Chẳng mấy chốc dấu bánh xe và chân ngựa đã rẽ sang một ngả khác, tách biệt với dấu chân người, đi vào một khu rừng rậm. Đường Lệ Từ và Ngọc Đoàn Nhi bước vào rừng, trên đường mọc đầy cỏ dại, không nhìn rõ dấu móng, chỉ thấy dấu vết cây cỏ bị nghiền nát kéo dài vào bên trong. Lại đến một ngã rẽ, dấu chân ngựa và vết bánh xe đột ngột chia ra làm hai hướng, mà trên một nhánh cây ở lối rẽ bên phải còn vương lại một sợi tơ vụn màu trắng. Đường Lệ Từ khẽ mỉm cười, rẽ sang phải, trước mắt là con đường dẫn xuống núi. Vượt qua ngọn núi này, đã nhìn thấy một trấn nhỏ.
Trước trấn có bia đá, bên trên viết hai chữ “Thừa Phong” rõ to, trấn nhỏ này có lẽ tên là trấn Thừa Phong.
Một cỗ xe ngựa treo màn trắng, kéo bằng hai con ngựa lớn trắng như tuyết đang chạy ra từ cửa một trang viên có tên “Vọng Đình Sơn Trang”, chạy về hướng đông. Ngọc Đoàn Nhi ồ lên, “Chính là cỗ xe ngựa này sao? Nhưng ngươi xem, ngựa chạy rất nhẹ nhàng, trong xe nhất định không có ai.”
Lâm Bô leo xuống khỏi lưng Đường Lệ Từ, “Trên cửa sổ có buộc sợi chỉ đỏ không?”
A Thùy cũng xuống khỏi lưng Ngọc Đoàn Nhi, hạ giọng hỏi, “Chỉ đỏ?”
“Trên cửa sổ của cỗ xe ngựa này vốn buộc một sợi chỉ đỏ rất mảnh.” Lâm Bô chỉ theo hướng cỗ xe ngựa kia rời đi, “Nhưng bây giờ không thấy nữa.”
Có lẽ sợi chỉ đỏ là dấu hiệu cho thấy trong xe ngựa có người không? Ánh mắt bốn người đổ dồn vào “Vọng Đình Sơn Trang”, nếu đình viện có vẻ ngoài bình thường này là một trong những cứ điểm của Phong Lưu Điếm, vậy Thẩm Lang Hồn rất có thể đang ở bên trong.
“Đường công tử, ngươi định làm gì?” Lâm Bô nhìn sơn trang, tâm trạng đã hơi sốt ruột, “Bên trong rất dễ có mai phục, ta thấy xông vào hơi khó đấy.”
Đường Lệ Từ ngắm sơn trang, mỉm cười vô cùng hòa nhã, “Ta sẽ không xông vào.” Y vỗ vai Lâm Bô, đẩy hắn ra sau lưng A Thùy, “Ba người tìm một chỗ trốn trước đi, đừng chọc vào rắc rối.”
Ngọc Đoàn Nhi chớp mắt, “Ta sẽ bảo vệ họ.”
Đường Lệ Từ cười cười, xoa đầu nàng, “Cô phải nghe lời A Thùy tỷ tỷ của cô.”
Ngọc Đoàn Nhi giữ chặt chuôi kiếm Tiểu Đào Hồng, “Ngươi muốn đi vào kiểu gì?”
Đường Lệ Từ lấy từ trong ngực ra một viên đạn màu bạc đưa cho A Thùy. Đó là một viên đạn khói, khi ném mạnh nó xuống đất không chỉ bốc khói mù mịt mà còn bắn tín hiệu màu đỏ lên trời, Kiếm hội trung nguyên dùng nó cho mục đích cấp cứu và liên lạc. A Thùy nhận viên đạn màu bạc, nàng đã thấy thứ này khi còn ở trên núi Hảo Vân, biết công dụng của nó. Đường Lệ Từ không giải thích công dụng của viên đạn tín hiệu này, y cũng đưa tay ra xoa đầu A Thùy, năm ngón tay vỗ về dường như vô cùng dịu dàng. A Thùy không né tránh, chỉ thở dài, mỉm cười hỏi, “Ngươi làm sao để vào đó?”
“Gõ cửa.” Đường Lệ Từ nhẹ nhàng nói, “Ta xưa nay không phải ác khách.” Tay phải y mới rời khỏi đầu nàng đã thò vào ngực áo, lại lấy ra một vật cài lên tóc A Thùy. A Thùy thoáng ngẩn ngơ, Ngọc Đoàn Nhi thò đầu ra xem, đó là một cây trâm cài tóc bằng bạc, tạo dáng như ý, hình thức tuy đơn giản nhưng hoa văn rất phức tạp, là một cây trâm bạc mang phong cách cực kỳ cổ điển hoa lệ, trông từa tựa vòng bạc Tẩy Cốt trên cổ tay Đường Lệ Từ, “Là một cây trâm…” Nàng vốn yêu cái đẹp, thấy A Thùy bỗng dưng có một cây trâm đẹp như thế, trong lòng hết sức ngưỡng mộ.
Đường Lệ Từ nhẹ nhàng nói, “Cây trâm này tên là Tẩy Tâm Như Ý’.” A Thùy đưa tay nhận lấy trâm bạc, trên mặt vốn đang mỉm cười, nhưng giờ đã không cười nổi nữa. Nàng còn chưa nói gì, Đường Lệ Từ lại lấy từ trong áo ra một vòng ngọc nhỏ, mỉm cười với Ngọc Đoàn Nhi, “Chiếc vòng này tên là ‘Bất Khí’, mang ý nghĩa tình sâu tựa biển, không xa không rời.”
Ngọc Đoàn Nhi nhận vòng ngọc đeo lên tay, chiếc vòng kia trong veo lấp lánh, màu dịu như nước, trông vô cùng đẹp mắt. Ngọc Đoàn Nhi rất vui, nhịn không được cười lên, “Cái vòng này đẹp quá đi mất…”
Đường Lệ Từ thấy nàng vui vẻ khua tay múa chân thì chỉ cười nhẹ. Gió núi thổi qua, đầu tóc quần áo y bay phất phơ, xoay người đi xuống Vọng Đình Sơn Trang dưới chân núi.
Trâm Tẩy Tâm Như Ý và vòng Bất Khí, tuy A Thùy chưa từng nghe danh hai món đồ trang sức này, nhưng nếu đã nằm trong ngực Đường Lệ Từ thì giá trị của chúng chắc chắn không rẻ. Người đời kể thiếu niên công tử dung một hộc châu đổi lại một tiếng cười giai nhân, gây nên chiến hỏa nghiêng nước nghiêng thành, đó là chuyện hoang đường khiến người ta nản lòng biết bao, nhưng…
Nhưng thật ra đối với nữ nhi, nếu có người nguyện ý làm chuyện này, không cần biết hắn ôm tâm tư ra sao, thì mình vẫn… Rất… Rất…
A Thùy rút cây trâm bạc trên búi tóc, lặng lẽ nhìn theo bóng lưng Đường Lệ Từ.
Vẫn… cảm thấy mình rất được cưng chiều…
Nhưng sự cưng chiều của Đường Lệ Từ có lúc rất nhẹ, có lúc rất nặng, đôi khi là thật, đôi khi là giả… Còn có lúc… có hại nữa.
Cây trâm bạc kia, nàng cài lên cũng không đúng, nhận cũng không đúng, mà vứt đi càng không đúng. Tay siết lại làm cây trâm đâm vào ngón tay đau nhức, nàng chợt tỉnh ngộ, rằng thật ra Đường Lệ Từ chỉ muốn nàng đau khổ vì y mà thôi.
Y muốn nàng và Phụng Phụng thống khổ vì mình, đau lòng vì mình, tốt nhất là chết vì mình.
Đường Lệ Từ đi đến cửa Vọng Đình Sơn Trang, nhấc vòng cửa gõ nhẹ vài cái. Chẳng bao lâu sau, một tiểu nha đầu búi tóc hai bên mở cửa, tò mò nhìn Đường Lệ Từ, “Huynh là…”
Đường Lệ Từ bày ra vẻ mặt hết sức ôn hòa, khom lưng xuống nhẹ nhàng nói, “Ta đến tìm người, trong nhà muội có vị thúc thúc nào trên mặt xăm hình rắn đỏ không? Ta là bạn hắn.”
Tiểu nha đầu kia mới chừng mười ba mười bốn tuổi, nghe vậy liền gật đầu, “Thúc thúc ngủ trong lồng, nhưng tỷ tỷ nói không được cho ai vào thăm.”
Đường Lệ Từ hỏi càng thêm dịu dàng, “Phải làm sao mới được vào thăm hắn?”
Tiểu nha đầu kia mỉm cười hết sức ngây thơ mơ mộng, “Tỷ tỷ nói phải chơi với ta, huynh thắng ta sẽ cho huynh vào thăm.”
“Chơi à? Chơi trò gì vậy?” Đường Lệ Từ mỉm cười, tiểu nha đầu trước mặt mắt hạnh tóc đen, thoạt nhìn vô cùng đáng yêu, “Muội tên là gì?”
Tiểu nha đầu kia chỉ vào mũi mình, “Ta tên Quan Nhi, còn huynh tên gì?”
Đường Lệ Từ nhướn mày, “Ta họ Đường, tên Đường Lệ Từ.”
“Đường ca ca,” Quan Nhi hé ra một khe cửa, ngoắc tay nói, “Vào đi.”
Đường Lệ Từ ngước mắt nhìn lên, sau cửa không phải vườn hoa. Sau lưng tiểu nha đầu ngây thơ mơ mộng là một cái ao nông, nước không sâu nhưng bốc lên một thứ mùi gay mũi. Trên mặt nước treo một sợi dây thừng mảnh nối thẳng lên mái nhà đối diện, khỏi nói cũng biết ao nước này đương nhiên không thể đụng vào. Mà gian nhà đối diện đơn giản tao nhã, toát ra vẻ yên bình, tựa như bên trong không có ai.
Quan Nhi nhảy lên sợi dây thừng kia, lấy từ trong ngực ra một vật nắm trong tay, “Chúng ta đổ xúc xắc, nếu huynh đổ ra số lớn hơn ta thì tiến về phía trước, nếu số của ta lớn hơn thì huynh lùi về phía sau.” Quan Nhi nói rất nghiêm túc, “Nếu huynh lui đến cuối đoạn dây thừng thì phải nhảy xuống ao, nếu ta để cho huynh đi sang bờ bên kia thì ta cũng phải nhảy xuống ao.”
Đường Lệ Từ vỗ vỗ tay, “Giao hẹn rồi nhé.”
Quan Nhi lui đến đầu bên kia của sợi dây thừng, Đường Lệ Từ tung người nhảy lên dây. Hai người đứng cách nhau hai trượng, dây thừng khẽ đung đưa dưới chân họ, khiến hai cái bóng in xuống mặt ao cũng theo đó lay động không ngừng.
“Bắt đầu!” Quan Nhi giơ cao tay phải rồi buông, hai viên xúc xắc rơi xuống ao, ánh mắt hai người đồng loạt lướt qua Nàng ném ra một viên “Sáu điểm”, một viên “Một điểm”. Nhưng cũng chỉ trong nháy mắt, xúc xắc dưới ao sủi lên một tầng bọt trắng, che đi điểm số, dường như muốn tan vào trong nước. Quan Nhi vỗ tay kêu to, “Mau lên mau lên nào, nếu không xúc xắc rơi rồi cũng chẳng chơi được nữa.”
Đường Lệ Từ khẽ mỉm cười, phất ống tay áo, hai viên xúc xắc kia bỗng lao ra từ trong nước, còn chưa rơi vào tay y đã đồng loạt xoay vòng trên không rồi lại cùng rơi xuống ao. Hai người đồng thời nhìn lướt qua, một viên “Sáu điểm”, một viên “Ba điểm”. Đường Lệ Từ tiến lên hai bước, giơ tay mỉm cười, “Đến lượt muội rồi.”
Quan Nhi đảo mắt hai vòng, “Ôi, vì sao huynh không tự tay cầm xúc xắc?”
Đường Lệ Từ nhẹ nhàng đáp, “Ta sợ đau.”
Quan Nhi lắc đầu, lại lấy từ trong ngực ra hai viên xúc xắc nữa, ném vào trong nước. Hai viên xúc xắc ban đầu rơi xuống ao đã bị nước ao ăn mòn một nửa, hoàn toàn không nhìn rõ điểm số. Xúc xắc rơi vào nước, trôi bồng bềnh trong ao, lần này là một viên “Ba điểm”, một viên “Năm điểm”.
Đường Lệ Từ phất áo rồi chắp tay, mặt nước nổi lên một tầng bọt sóng, hai viên xúc xắc bay lên không trung, bắn ra vài chục giọt nước hắt lên người Quan Nhi. Quan Nhi giật nảy mình, nhảy lên tránh nước ao, lại thấy hai viên xúc xắc đều được sáu điểm thì lập tức ngẩn người. Đúng lúc nàng nhảy lên, Đường Lệ Từ đã tiến thêm bốn bước, mỉm cười hết sức dịu dàng, “Xin lỗi, ta lại thắng rồi.”
Quan Nhi lại đưa tay vào ngực, lấy ra hai viên xúc xắc mới, “Lần này nhất định sẽ không để cho huynh thắng!” Nàng buông tay cho xúc xắc rơi xuống nước, lần này cũng ra hai viên sáu điểm, là điểm số lớn nhất. Đường Lệ Từ khẽ mỉm cười, Quan Nhi thoáng hoa mắt, bỗng dưng gương mặt Đường Lệ Từ đã cận kề trước mắt nàng, mặt đối mặt mũi đối mũi. Nàng sợ hãi hét lên một tiếng, lùi về sau tránh né, Đường Lệ Từ vẫn dí sát theo như bóng với hình. Nàng thấy đôi mắt y kề sát mặt mình bị phóng to và đen hơn, tựa như dưới ao nước sâu đen ngòm có một con ác thú dữ tợn muốn nổi lên mặt nước. Rồi y nhẹ nhàng nói, “Quan Nhi, muốn chơi cũng được thôi. Nhưng trước khi ăn gian, muội nên chắc chắn người chơi cùng muội không đột ngột bảo muội rằng… ‘Ta không chơi nữa’.”
Chỉ nghe một tiếng “bộp” khẽ, Quan Nhi hộc ra một ngụm máu tươi rơi xuống ao, trơ mắt nhìn máu mình làm mặt ao bốc lên một làn khói trắng. Đường Lệ Từ vỗ nhẹ một chưởng vào ngực nàng, bế nàng lên đặt trước cửa gian nhà phía sau sợi dây, xoa đầu nàng rồi đẩy cửa bước vào.
Nàng bị đặt ở cửa như một con búp bê rách nát, không thể cựa quậy, ngẩng đầu nhìn bầu trời xanh và mặt trời.
Y không ném nàng xuống ao, cũng không giết nàng.
Dù nàng mới mười bốn tuổi, nhưng thật ra đã giết rất nhiều người.
Lồng ngực Quan Nhi phập phồng, thở hổn hển nhìn trời, khung cảnh trước mắt rộng mênh mang mà chẳng có một ai.
Trong gian nhà sau lưng Quan Nhi cũng không có người. Đường Lệ Từ đẩy cửa bước vào, đó là một Phật đường, nhưng trên bệ không có tượng Phật. Sâu trong màn trướng âm u lẽ ra phải là nơi cúng Phật Tổ lại treo một bức tranh phụ nữ, nếu Đường Lệ Từ không có đôi mắt tinh tường thì cũng không phát hiện ra được. Trước bức tranh thắp một nén hương, hương vừa cháy hết không lâu, cả Phật đường vẫn còn thoang thoảng mùi hương nhàn nhạt ấy.
Đường Lệ Từ ngắm kỹ bức tranh kia, nét vẽ rất giống thật, không phải bút pháp tầm thường, thậm chí còn dùng vài loại màu vẽ hiếm gặp, thấp thoáng phong cách tranh sơn dầu. Y cảm thấy tranh này quá nửa là tác phẩm của Liễu Nhãn, vẽ một thiếu nữ toàn thân mặc áo váy màu hồng. Thiếu nữ này trông rất giống Tây Phương Đào, nhưng lại không phải là Tây Phương Đào.
Nàng trẻ hơn một chút so với Tây Phương Đào, đang vén mái tóc xõa tung, có mấy lọn tóc đen bay phất phơ rủ xuống trước ngực. Trên người nàng là một bộ váy áo màu đào vô cùng quen thuộc, giống hệt bộ đồ mà Tây Phương Đào thường mặc. Thiếu nữ này có cái cằm thon, gương mặt trái xoan đẹp đẽ, hàng mi rủ xuống như đang nhìn mặt đất, trên cổ nàng phía bên phải có một nốt ruồi đen nhỏ. Nhìn vào tranh có thể thấy nàng ngồi dưới tán cây hoa đào, hoa trên cây nở rực rỡ. Dưới đất rụng đầy cánh hoa, hòa lẫn với bộ váy áo màu đào của nàng, trông dịu dàng như mộng.
Nhưng bức tranh này cũng không phải cảnh thật.
Đây là bức chân dung ký họa một thiếu nữ, sau đó vẽ thêm bối cảnh mà thành tranh. Đường Lệ Từ nhìn bức vẽ đăm đăm, dựa trên cơ sở này có thể thấy thiếu nữ này nhắm mắt lại ngồi dựa vào vật gì đó, mái tóc hơi rối, tư thế cũng rất cứng nhắc, dễ chừng… Là một thi thể.
Nếu Liễu Nhãn vẽ chân dung cho một thi thể, sau đó Tây Phương Đào treo nó ở đây thờ cúng, thì thiếu nữ trong bức tranh kia nhất định không tầm thường. Dựa vào dấu vết bốn phía Phật đường, dễ thấy bức tranh này đã treo ở đây thờ cúng từ lâu rồi. Vọng Đình Sơn Trang nhất định đã trở thành cứ điểm của Phong Lưu Điếm được vài năm, không lẽ chính là để thờ cúng bức tranh này sao?
Bốn bề vắng vẻ tĩnh mịch, Đường Lệ Từ đứng trước bức chân dung một lúc, chợt đưa tay kéo nó xuống cất vào trong ngực, bước từ Phật đường ra ngoài qua cửa sau.
Phía sau Phật đường là một vườn hoa. Hòn non bộ nước chảy róc rách, kỳ hoa dị thảo, rừng đại thụ tinh diệu tuyệt vời tạo ra một kỳ cảnh chốn nhân gian, tựa như tất cả cảnh đẹp làm người ta thán phục ngưỡng mộ trên thế gian đều đã hòa vào vườn hoa không lớn không nhỏ này. Đường Lệ Từ nhướn mày. khẽ mỉm cười. Người xây nên đình viện này thật sự rất giỏi, thế mà trong đình viện đẹp tựa tiên cảnh ấy lại không có ai, trông nó hệt như một tòa nhà trống.
Thẩm Lang Hồn có thật sự ở trong tòa sơn trang này không? Đường Lệ Từ vén cành mai khô mùa đông, chỉ thấy trên mặt đất ngổn ngang gỗ đá là hơn hai ba chục thi thể đang nằm lặng lẽ, phần lớn là yêu hồn tử sĩ mặc áo đen bó sát thêu hoa, còn có vài người không biết là ai cũng lẳng lặng nằm dưới đất. Những thi thể này thoạt nhìn không bị thương, nhưng chính giữa ấn đường đều có một chấm đỏ, Đường Lệ Từ ngẩng đầu lên, chỉ thấy trong rừng có một lồng sắt treo lơ lửng giữa không trung, Bên ngoài lồng sắt bò kín những con rắn độc khô màu nâu, nên vừa rồi y tạm thời không nhìn ra trong lồng mơ hồ có một người.