Năm Tháng Huy Hoàng - Chương Xuân Di - Chương 90: Nhường ngôi
Tư Mã Dĩnh ra lệnh cho người mang bức thư đến Tả Quốc Thành, ánh mắt hắn liếc nhìn A Diệu đang đứng một bên, bắt đầu phân chia nhiệm vụ: “Bây giờ mọi việc đã xong, xin mời Thông vương tử lập tức khởi hành về Lạc Dương và giúp bổn vương trông chừng Tư Mã Luân. Nếu có động tĩnh nhỏ nào, bổn vương có thể lập tức biết ngay.” Tư Mã Dĩnh cười đến quỷ dị: “Thông vương tử có thân phận là nghĩa tử của Triệu Vương, muốn vào Lạc Dương cũng không khó.”
Lưu Uyên nhướng đôi mày rậm, đầy thâm ý nhìn về phía Tư Mã Dĩnh.
“Thông vương tử được làm nghĩa tử của Triệu Vương, nhất định là sự sắp đặt của Đại Thiền Vu.” Tư Mã Dĩnh lắc lắc tấm da trong tay, ngoài cười nhưng trong không cười: “Bản hiệp nghị này chắc chắn Triệu Vương cũng có một phần.” Lúc đầu Tư Mã Luân nhận A Diệu là nghĩa tử, chuyện này người người ở thành Lạc Dương đều biết, từ đó Tư Mã Dĩnh suy luận ra Lưu Uyên và Tư Mã Luân đang có mưu đồ bí mật với nhau, cũng không khó để nhận ra chuyện này.
Lưu Uyên không nghi ngờ gì hắn, ông ta cười lớn: “Thành Đô Vương có thể yên tâm. Nếu ta đã kết thành đồng minh với Thành Đô Vương, chứng tỏ Nguyên Hải ta đã trồng một cái cây ở nơi đất tốt khác, phần trong tay Triệu Vương đương nhiên sẽ bị phế bỏ.”
Tư Mã Dĩnh chậm rãi nhét tấm da vào trong túi tay áo: “Thông vương tử ở ngoài mặt vẫn có thể được Triệu Vương sử dụng, nhưng hắn nhất định phải là người của ta trong bí mật.”
Lưu Uyên hiểu ra, thì ra hắn muốn A Diệu đi làm gián điệp cho hai bên. Hiện giờ cha con ông ta đều là người hữu dụng đối với Tư Mã Dĩnh, người này có thể kiềm chế người kia, quả là mưu kế tốt. Lưu Uyên không khỏi nhìn Tư Mã Dĩnh bằng ánh mắt khác. Lúc trước ông ta chỉ nghe nói vị vương gia trẻ tuổi quyền cao chức trọng này là người hào nhoáng khoe khoang, chưa bao giờ nghe nói hắn giỏi mưu lược như vậy. Có thể thấy, từ việc bí mật bắt giữ ông ta, đến việc liên kết đồng minh, rồi cả việc phái A Diệu đi, những sự sắp xếp đó đều trôi chảy trót lọt, đâu giống với một số hoàng tộc Tư Mã thiển cận. Xem ra, ngày sau cùng Tư Mã Dĩnh đọ sức, ông ta càng phải cẩn thận hơn mới được.
Vì nhận được một nhiệm vụ quan trọng như vậy nên A Diệu và A Lạc ngay lập tức lên đường đến Lạc Dương. Khi ngựa chạy băng băng trên con đường giữa Nghiệp Thành và Lạc Dương, A Lạc hỏi câu hỏi mà hắn đã ấp ủ bấy lâu nay: “Quả nhiên như đệ đã nói, chúng ta rất nhanh sẽ trở lại Lạc Dương. Nhưng làm sao đệ có thể đoán trước được đệ sẽ là người do Tư Mã Dĩnh phái tới? Làm sao đệ biết chúng ta nhất định sẽ rơi vào tay Tư Mã Dĩnh?”
A Diệu cầm dây cương cho ngựa giảm tốc độ, chàng im lặng một lúc rồi mới trả lời: “Là ta đã tiết lộ tung tích của đoàn múa cho Tư Mã Dĩnh.”
Khi đoàn múa nhận được lệnh sơ tán khỏi Lạc Dương vào sáng sớm hôm sau, thì đêm muộn hôm đó, một vị khách bí ẩn đã đến cung điện của Tư Mã Dĩnh. Người này được dẫn vào thư phòng yên tĩnh nhất trong cung điện, nơi Tư Mã Dĩnh đang đợi.
Sau khi bảo người hầu lui đi, Tư Mã Dĩnh vội hỏi: “Tư Mã Minh công tử, người là con nuôi của Triệu Vương, làm sao ta có thể tin tưởng người?”
Người đến cởi bỏ chiếc áo choàng lớn che đầu xuống, lộ ra khuôn mặt tuấn tú vô song nhưng có chút tiều tụy và lạnh lùng. Người này khom mình hành lễ và đi thẳng vào vấn đề: “Tên thật của ta là Lưu Thông, ta là con trai của Đại Thiền Vu thuộc tộc Hung Nô. Lúc này, Đại Thiền Vu đang ở thành Lạc Dương.”
Tư Mã Dĩnh kinh ngạc, đây quả thực là một tin tức nóng hổi. Hắn không khỏi trù tính, nếu bắt được Lưu Uyên thì có thể được bao nhiêu phần thưởng? Nhưng hắn lập tức đổi ý định này. Hiện tại Tư Mã Luân đang nắm quyền, giao Lưu Uyên cho Tư Mã Luân cũng sẽ không có lợi gì cho hắn. Hơn nữa, hắn càng có hứng thú với người mới đến này hơn: “Nghe nói Thông vương tử là người dũng mãnh mưu lược, được Đại Thiền Vu hết sức coi trọng. Vì sao người lại đến tố giác phụ thân của người cho ta?”
A Diệu đã sớm chuẩn bị sẵn từ ngữ và nói một cách đĩnh đạc: “Thành Đô Vương có biết ta có một người huynh trưởng tên Lưu Hòa không? Huynh ấy là người của Đại Yên thị, tuổi tác lớn nhất trong số các huynh đệ. Hiện tại, ở chư bộ Hung Nô, tiếng kêu gào nhiều nhất chính là để huynh ấy lên làm Thái tử.”
Tư Mã Dĩnh đang trấn giữ Nghiệp Thành nên đương nhiên có thể biết được tin tức về các bộ Hung Nô. Hắn nhìn A Diệu đầy thâm ý: “Luận về mưu trí, luận về dũng lực, Thông vương tử hơn hẳn huynh trưởng của người rồi. Chẳng qua là do xuất thân của mẫu thân người bị hạn chế, nên Thông vương tử không cam lòng thì phải?”
A Diệu nhấp nhánh mắt, ánh mắt thâm sâu: “Sau khi tại hạ suy đi nghĩ lại, đã quyết định tìm cho mình một chỗ dựa lớn hơn mới có thể đánh cược với huynh trưởng của tại hạ.”
Tư Mã Dĩnh cuối cùng cũng hiểu, Lưu Thông đây là muốn nương nhờ nơi hắn. Hắn cười ha hả, rồi vung tay áo lên và ngồi xuống: “Người không phải là nghĩa tử của Triệu Vương sao? Bây giờ Triệu Vương là người có quyền thế nhất, vì sao người không tìm Triệu Vương, trái lại đi tìm ta?”
A Diệu cười gượng nói: “Tại hạ có thể trở thành nghĩa tử của Triệu Vương là vì Đại Thiền Vu đã bí mật liên minh với Triệu Vương. Chẳng lẽ Thành Đô Vương ngài cho rằng Triệu Vương sẽ bỏ qua phụ thân của tại hạ mà hợp lực với tại hạ sao?” Chàng giương mắt nhìn Tư Mã Dĩnh, giọng nói càng trầm thấp, “Hơn nữa Triệu Vương một khi soán ngôi, chỉ có duy nhất một con đường chết, vì sao tại hạ phải bám vào người chết?”
Tư Mã Dĩnh trợn tròn mắt, vô cùng hứng thú hỏi: “Bổn vương và người liên kết với nhau thì có được lợi ích gì?”
A Diệu mỉm cười vì đã định liệu từ trước: “Tại hạ sẽ đưa phụ thân đến gặp Thành Đô Vương.”
*****
A Diệu đã kể đầu đuôi mọi chuyện cho A Lạc về mưu đồ bí mật đêm đó với Tư Mã Dĩnh. A Lạc chợt bừng tỉnh, khó trách Tư Mã Dĩnh lại nắm được tung tích của bọn họ chính xác như vậy, đây chính là lá thư vạch ra của A Diệu gửi cho Tư Mã Dĩnh. Giam giữ Đại Thiền Vu Hung Nô bên cạnh chắc chắn là một quân cờ cực kỳ hữu dụng, không chỉ kiềm chế người Hung Nô mà còn thu được một cố vấn có thể so sánh với Khổng Minh. Tất nhiên, Lưu Uyên là con dao hai lưỡi, nếu không có mưu kế ứng biến tương đương, lưỡi dao sắc bén này rất có thể sẽ làm tổn thương chính bản thân hắn. Nhưng Tư Mã Dĩnh lại quá đề cao bản thân mình, sợ rằng hắn chưa bao giờ nghĩ tới vấn đề này.
A Diệu hừ lạnh một tiếng, ánh mắt nhìn về phía chân trời: “Để Tư Mã Dĩnh phái ta tới Lạc Dương cũng là chủ ý của ta. Không có Đại Thiền Vu ở bên, ta có thể tự do làm rất nhiều chuyện.”
A Diệu muốn ở lại Lạc Dương, thì chàng tuyệt đối không được làm mích lòng Lưu Uyên. Một khi trở về Tả Quốc Thành, Lưu Uyên nhất định sẽ lợi dụng nội chiến của triều Tấn để ra tay, hoặc nhân cơ hội mở rộng địa bàn, hoặc thỉnh thoảng sẽ quấy rối biên giới, vô tình A Diệu sẽ bị ông ta sai khiến và không còn hy vọng quay trở lại Lạc Dương nữa. Vì vậy, để Tư Mã Dĩnh bắt giữ Lưu Uyên thì A Diệu mới có lý do chính đáng nhất để trở về Lạc Dương, cho nên chàng đã nghĩ ra một kế hoạch tài tình là bắn một mũi tên trúng hai con chim. Tốc độ trưởng thành nhanh chóng của A Diệu khiến A Lạc phải nhìn chàng với con mắt khác xưa.
A Lạc vẫn có chút nghi hoặc: “Tư Mã Dĩnh lại không phái người giám sát đệ, thì làm sao biết đệ nhất định sẽ ngoan ngoãn đi Lạc Dương dò xét tin tức cho hắn, mà không phải lén lút quay về Hung Nô?”
“Đại Thiền Vu viết thư về vương đình Hung Nô, lệnh cho Lưu Hòa giám quốc. Huynh nghĩ xem, nếu ta thật sự là Lưu Thông, lúc này trở về Hung Nô, mọi chuyện phải nghe theo hiệu lệnh của Lưu Hòa, điều này có lợi gì cho Lưu Thông? Không bằng ta ở lại đây thể hiện thật tốt cho phụ thân ta xem. Tư Mã Dĩnh nhận định được điểm này, nên đương nhiên sẽ yên tâm với ta.” A Diệu nhíu mày, vẻ mặt chứa hàm ý sâu xa, “Muốn thuyết phục người khác thì nên dụ dỗ họ bằng lợi ích thay vì dùng lý lẽ.”
A Lạc trầm tư một lát, âm thầm ghi nhớ những lời này.
A Diệu vung dây cương, kẹp chặt bụng ngựa khiến ngựa phi như tên bay. A Lạc vội vàng đuổi theo nhanh như chớp và nhìn về phía A Diệu bên cạnh, nét mặt hắn toát lên những suy nghĩ.
*****
Tháng hai đầu xuân, thời tiết chuyển lạnh. Vào lúc chạng vạng, A Diệu và A Lạc tiến vào thành Lạc Dương trong bộ dạng phong trần mệt mỏi. Trời bắt đầu mưa liên tục, một bầu không khí kỳ dị bao trùm cả kinh thành và sấm sét đột ngột đánh xuống từ phía chân trời.
Ngay sau buổi chiều mưa gió, mọi người bất chấp sự ẩm ướt và lạnh lẽo, hoảng hốt chạy đi nói với nhau: “Ngôi vị hoàng đế đã được trao cho Triệu Vương rồi!”
Hai người bọn họ ghim ngựa nhìn nhau, tim đập “thình thịch”: Điều cần phải đến cuối cùng cũng đã đến!
Rõ ràng hoàng đế còn chưa tính là già, đã có người thừa kế ngai vàng, trong triều đình còn có không ít người giúp sức, vậy tại sao lại xảy ra chuyện nhường ngôi một cách khó hiểu như thế?
Trò hề này thực sự chỉ có thể xảy ra với Tư Mã Trung, chứ không phải với những hoàng đế khác.
Sáng sớm hôm nay, Tư Mã Luân còn chưa ra tay vì ông ta biết rất nhiều cận thần đều đứng về phía hoàng đế. Sau khi vào triều, ông ta mời Tư Mã Trung đến nghe các Nho sĩ dạy học. Đây là cuộc tụ họp chỉ với quy mô nhỏ và tất cả những người có mặt đều là những phần tử trung thành của Tư Mã Luân. Ngay lúc Tư Mã Trung đang buồn ngủ sau khi nghe bài giảng về Nho giáo, người hầu thân cận nhất của ông là Ngụy nội quan bước vào, cầm ngọc tỷ và ấn tín của hoàng đế, rồi hét lên rằng Triệu Vương đã được định sẵn sẽ là người kế vị ngai vàng. Mọi người có mặt đều đồng ý. Đối với hoàng đế, Ngụy nội quan nói, cuộc sống của Tư Mã Trung sẽ tuyệt vời như thế nào sau khi thoái vị mà chỉ có kẻ ngốc mới tin, cuối cùng Tư Mã Trung cũng lắc lư thân mình đồng ý thoái vị giữa những ồn ào.
Ngụy nội quan không biết nhục nhã mang ngọc tỷ và ấn tín của hoàng đế nhét vào tay Tư Mã Luân. Tư Mã Luân đã ra vẻ từ chối ba lần, sau cùng thì chấp nhận lời đề nghị giữa những lời lẽ xu nịnh.
A Diệu và A Lạc bắt những người giỏi buôn chuyện để hỏi từng người một, họ thêm mắm thêm muối vào cả quá trình hoặc chỉ là những suy nghĩ chủ quan của họ rồi chắp nối thành một câu chuyện, nhưng cũng đã giúp cho A Diệu và A Lạc hiểu được đại khái toàn bộ quá trình của trò hề này. Hai người họ chỉ còn biết cười khổ. Chỉ ở vị trí của Tư Mã Trung mới khiến cho việc nhường ngôi này giống như một buổi biểu diễn thuận lợi suôn sẻ. Mà Tư Mã Luân thuộc thế hệ là ông của Tư Mã Trung, là thúc tổ trong dòng tộc lại có thể tự mình tôn cháu trai lên làm Thái thượng hoàng, gọi một cô nương vừa tròn mười tám như đóa hoa nở rộ là Thái thượng hoàng hậu. Để leo lên được ngôi vị hoàng đế, Tư Mã Luân đã bất cần cả những luân lý trong các mối quan hệ vai vế.
Đứng trên đường, nhìn thấy mọi người xung quanh đang thì thầm với nhau, A Lạc lo lắng nhìn A Diệu: “Chúng ta nên làm gì bây giờ?”
A Diệu không trả lời mà nhìn từng mảnh mái nhà vàng rực bên trong hoàng thành. Mái nhà của Lăng Vân Đài cao nhất được phủ bằng mica đã mất đi vẻ huy hoàng trước đây trong cơn mưa phùn kéo dài liên tục. Gió cuốn theo những hạt mưa lướt qua bên tai chàng, lông mày chàng nhíu lại, đôi mắt đen sâu như vực thẳm, âm u khó dò.
Lúc này trong cung tràn ngập khí lạnh từ dưới đất bốc lên phả vào cửa, rất nhiều người tụ tập trước điện Sùng Quang, nơi ở của hoàng đế. Các phi tần của Tư Mã Trung đều đến, trong cơn mưa gió lạnh lẽo, tiếng thút thít của mọi người còn thảm thiết hơn cả khi uống canh tuyệt tử.
Tôn Tú đang ở một bên tuyên đọc chiếu thư, chiếu thư này đương nhiên là do tân “Hoàng đế” hạ chỉ. Ông ta đọc những dòng lộn xộn tạp nham nửa ngày xong cũng chỉ toàn là những lời lẽ vô dụng. Trong chiếu chỉ nói cái gì mà phụ thân của Tư Mã Luân là Tư Mã Ý đã báo mộng cho ông ta, để sớm vào cung thay thế cho cháu trai mình. Tư Mã Luân nhiều lần lấy lý do không muốn, nhưng mỗi ngày Tư Mã Ý ở trong mộng cứ lải nhải khiến ông ta không nhịn được, vì thế ông ta quyết định vào cung tiếp nhận thiên mệnh, tôn Tư Mã Trung lên làm Thái thượng hoàng, đổi niên hiệu thành Kiến Thủy.
Sau khi Tôn Tú đọc xong “Chiếu thư”, ông ta dương dương tự đắc dùng tay ra hiệu: “Thỉnh Thái thượng hoàng cùng Thái thượng hoàng hậu di giá đến thành Kim Dung để an dưỡng tuổi già.”
Kê Thiệu đứng ở phía sau Tư Mã Trung phẫn nộ “Hừ” một tiếng.
Nghe được ba chữ “thành Kim Dung” các phi tần càng khóc thảm thiết hơn. Ai mà không biết đó là địa ngục trần gian có đi mà không có về, khắp nơi trong thành đều phiêu bạt những cô hồn dã quỷ trên chiến trường chính trị bị thất bại và bị đem đi giết. Đến nơi đó là làm bạn với những người không được chết già, chứ không phải là an dưỡng tuổi già nữa.
Hiến Dung vẫn nghiêm nghị trầm mặc không nói. Nàng sợ một khi mở miệng sẽ phun ra ngụm máu tươi đang không ngừng cuồn cuộn trong lồng ngực. Nhìn về vẻ mặt si ngốc của Tư Mã Trung, nàng thực sự đau lòng cho sự bất hạnh của ông ấy, tức giận vì ông ấy không có khả năng chiến đấu. Dưới sự cổ vũ của Tư Mã Quýnh và phụ thân của nàng, nàng đã lấy lại tinh thần, thề đối kháng với Tư Mã Luân đến cùng. Nhưng không nghĩ tới vị đồng đội này tự mình chủ động nhường ngôi, làm gián đoạn hết mọi kế hoạch của nàng.
Hôm nay đại cục đã định, nàng nói cái gì làm cái gì cũng vô dụng mà thôi.
Tư Mã Trung hoàn toàn không rõ những nữ nhân này khóc nháo cái gì, ông nắm lấy tay Hiến Dung cười ngây ngô: “Hoàng hậu, chúng ta về sau muốn chơi như thế nào thì chơi như thế đó rồi, không ai ép trẫm mỗi ngày phải ngồi ở vị trí không thoải mái kia nữa, thật là tốt à!”
Hiến Dung nhìn trí lực của Tư Mã Trung chỉ dừng lại ở vẻ trẻ con, nàng tuyệt vọng tới cực điểm đến mức bật cười thành tiếng. Với Tư Mã Trung mà nói, vị trí mà thiên hạ đang tranh đoạt đối với ông ấy không có tác dụng. Nếu không phải năm đó mẫu thân không có đầu óc của ông ấy ép Tư Mã Viêm lập ông ấy lên làm Thái tử, thì cả đời này của ông ấy đã là một vương gia vừa có tiền vừa lại nhàn rỗi, như vậy mới là kết cục tốt nhất. Trong tay có quyền lực nhưng không có cái nhìn đại cục, điều này đáng sợ cỡ nào.
Một nhóm lớn người vừa chạy tới vừa hét lên “Bệ hạ”. Với đôi guốc gỗ ở chân, đầu đội mũ và thắt lưng cao, bọn họ thực sự không thể chạy nhanh được. Có người còn vội vã lao tới, nhưng dẫm phải chỗ ẩm ướt liền bị trượt chân té ngã, khiến cho ống tay áo dài và tà áo đều dính bẩn trông rất nhếch nhác. Hiến Dung nhìn kỹ thì phát hiện người ngã xuống là Tư Mã Duệ, phía sau hắn là những danh sĩ ở Lạc Dương gồm Vương Đạo, Lục Cơ và một số người khác. Hiến Dung không ngờ rằng Tư Mã Duệ lúc này chưa đi phong quốc, còn có thể đứng ra ủng hộ hoàng đế.
Tư Mã Duệ không quan tâm toàn thân hắn thảm hại đến mức nào mà nhanh chóng bước tới nắm lấy tay áo Tư Mã Trung, quỳ gối cúi lạy và khóc lớn: “Bệ hạ không được thoái vị! Triệu Vương đã dùng thủ đoạn xấu xa bỉ ổi để lừa gạt ngai vàng. Việc nhường ngôi này rõ ràng là danh không chính lời không thuận, văn võ trong triều sẽ không phục, bách tính trong thiên hạ này cũng sẽ không phục!”
Tư Mã Trung bĩu môi khó xử: “Trẫm tự nguyện làm như vậy. Dù sao mọi việc cũng đã như thế rồi, chúng ta cũng không thể làm gì khác được.”
Vương Đạo quỳ xuống, hét lên: “Bệ hạ, thần đợi can ngăn người đến chết mới thôi!”
Khi Vương Đạo la lớn, tất cả những người có mặt ở đó đều nhao nhao gật đầu. Hiến Dung vuốt trán cười khổ, điều này không có tác dụng thực tế gì. Bọn họ, những danh sĩ ưu tú này mỗi ngày đều ngồi nói những lý luận suông, liệu có thể nghĩ ra được biện pháp nào khác hữu dụng hơn không?
Hiến Dung lúc này cũng đã bình tĩnh lại, nàng nhìn về phía Tư Mã Duệ, giọng nói dịu dàng, nhưng lại có sức mạnh an ủi lòng người: “Lang Nha Vương, chuyện đã đến nước này, người có liều chết khuyên ngăn cũng không có lợi ích gì. Mạng sống của mọi người quan trọng hơn, hãy giữ lấy nó và chờ đợi mọi việc diễn ra sắp tới thôi.”
“Hiến–” Tư Mã Duệ vội vàng đổi lời, khuôn mặt tái nhợt tràn ngập đau đớn vô tận, giọng nói nghẹn ngào: “Hoàng hậu nương nương, nếu có việc gì giúp ích được cho người, xin hãy thông báo cho thần biết, thần thề chết cũng sẽ làm tròn cho người.”
Hiến Dung cảm động muôn phần, sống mũi chua xót không chịu nỗi. Mọi chuyện đến nước này, một số người trong triều cho dù không thừa cơ hãm hại thì cũng sợ hãi mà tránh xa. Nhưng người không quyền không thế, không dính dáng đến việc chính như Lang Nha Vương mà dám nói ra những lời như vậy, quả là người có phẩm hạnh thanh cao và mang dũng khí không hề sợ hãi.
Tôn Tú khịt mũi hừ một tiếng trong thời tiết rét lạnh, đứng nhìn nhóm danh sĩ tới gây rối. Hiến Dung lo rằng họ sẽ bị Tư Mã Luân thù hằn nên đã khuyên nhủ bọn họ quay về bằng những lời thiện ý. Trời đã khuya, các danh sĩ cứ tụ tập thành vòng tròn không chịu rời đi, rốt cuộc đã bị đám binh lính của Tôn Tú xua đuổi ra khỏi cửa cung.
Về phần Hiến Dung, nàng ra lệnh cho các phi tần và cung nữ thu dọn đồ đạc, sau đó dặn dò thêm cho Xuân Nhi: “Muội mau dẫn Tang Nhi tới đây.”
Nguy hiểm nhất bây giờ chính là đứa trẻ này, Tư Mã Luân sẽ dốc hết sức để diệt trừ tận gốc Tư Mã Tang. Xuân Nhi vội vã mang đứa trẻ số khổ quay trở về, Hiến Dung ôm lấy Tư Mã Tang, giọng nói nghiêm khắc vang lên trước đại điện, nàng muốn cho tất cả mọi người nghe rõ lời nói của nàng: “Sau này Hoàng thái tôn sẽ sống một cuộc sống bình thường với bổn cung. Bổn cung ăn gì thì Tang Nhi ăn nấy.”
Nói xong, Hiến Dung vẫn duy trì phong thái cần có của một hoàng hậu, nàng bước chậm rãi về phía Tư Mã Trung, bất kể mưa bụi ngày càng dày đặc: “Bệ hạ, chúng ta đi thôi.”
Hiến Dung từ chối ngồi kiệu, nàng bảo hoàng đế, à không, Thái thượng hoàng mới phải, nàng bảo ông thẳng lưng lên đi bộ qua đoạn đường này. Bọn họ đi về phía bắc hoàng cung, ra khỏi cổng cung ở phía bắc mới có thể đến được thành Kim Dung. Đường đi tuy không dài, nhưng là đi từ nhân gian đến địa ngục, Hiến Dung muốn Tư Mã Trung ghi nhớ đoạn đường này.
Khi màn đêm buông xuống, những ngọn nến trong những chiếc đèn lồng đung đưa trong gió lạnh và mưa giông, giống như những đóm lửa ma trơi. Luồng khí lạnh buốt xuyên qua cả tứ chi, như đã cắm rễ vào bên trong đến tận xương tủy.
Một nhóm hàng chục người, bao gồm tất cả các phi tần từng hầu hạ Tư Mã Trung, mỗi người đều có từ một đến năm người kiềm kẹp giữ chặt, dưới sự áp giải của Túc vệ quân do Tôn Tú chỉ huy, cuối cùng bọn họ cũng đã đến thành Kim Dung. Vệ thành này nằm ở góc tây bắc của cung, địa thế hiểm yếu, ngước mắt lên là có thể nhìn thấy Mang Sơn trải dài mấy dặm. Cháu trai của Tào Tháo là Ngụy Minh Đế đã xây dựng thành này với mục đích như cứ điểm quân sự quan trọng, nếu địch tấn công từ Mang Sơn, thành Kim Dung sẽ là nơi gánh chịu đầu tiên. Vì vậy, thành tuy nhỏ nhưng tường thành dày rộng và kiên cố, bốn góc đều có chòi gác canh giữ.
Nhưng kể từ ngày xây dựng thành này cho đến nay, chưa bao giờ phải thực hiện việc phòng thủ, là do có tường thành cao kiên cố, việc giam giữ đặc biệt hữu hiệu. Nói về thành Kim Dung, từ thời Ngụy đã có quá nhiều thành viên hoàng tộc chết ở đây. Đầu tiên là Tào Phương, vị hoàng đế nhà Ngụy bị Tư Mã Sư phế truất. Sau này đến lượt Dương Chỉ, là hoàng hậu thứ hai của Tư Mã Viêm, Giả Nam Phong đã đối xử tàn nhẫn cay độc với bà mẹ chồng trên danh nghĩa này, thậm chí còn để bà ấy chết đói. Chưa đầy mười năm sau, cả nhà Thái tử Tư Mã Duật cũng bị Giả Nam Phong giam cầm và rất nhanh bị bà ta giết chết bằng thuốc độc. Sau đó đến lượt chính Giả Nam Phong, người đã làm nhiều điều gian ác. Bà ta chết cách đây chưa đầy hai tháng, thì người kế vị của bà ta đã nhanh chóng được đưa vào. Khi Hiến Dung nghĩ đến những điều này, sự đau khổ và bi thương trong lòng thực sự khó mà diễn tả được.
Trước cửa có hai hàng binh sĩ, tay cầm binh khí, vẻ mặt ngơ ngác. Hiến Dung đứng trước cổng thành Kim Dung ngẩng đầu nhìn lên, trong cơn mưa bụi chỉ có thể nhìn thấy hình dáng đen kịt của bức tường thành cao lớn, như thể nó sẽ đè xuống bất cứ lúc nào và nuốt chửng mọi thứ.
Tôn Tú uy hiếp, yêu cầu nhóm người của Thái thượng hoàng nhanh chân lên. Khi Hiến Dung vừa muốn bước một bước thì phía sau truyền đến một thanh âm quen thuộc: “Hiến Dung!”
Hiến Dung vội vàng quay đầu nhìn lại, phía sau một hàng binh có một người nam mặc y phục đen, đầu đội mũ cao, dáng người cao gầy, cùng chòm râu bên dưới cằm, chính là Dương Huyền Chi! Ông bị đám binh sĩ chặn lại, không thể đi tới bên cạnh Hiến Dung, chỉ có thể đứng từ xa nhìn con. Trong mắt ông có sự bi thương, có sự căm phẫn, có ngàn lời khuyên nhủ nhưng cuối cùng chúng chỉ có thể hóa thành từng dòng nước mắt đau thương. Đứng bên cạnh ông là một người thiếu niên cao lớn, chính là Tư Mã Quýnh, y cũng mang ánh mắt thương xót nhìn Hiến Dung.
Bất giác nước mắt Hiến Dung rơi đầy. Nàng cứ mạnh mẽ chống đỡ, mãi cho đến giờ, nàng mới cảm nhận được mùi vị tang thương.
Thấy nàng vẫn chưa chịu đi tiếp, Tôn Tú bước tới đẩy nàng thật mạnh. Hiến Dung bị đẩy mạnh đến nỗi loạng choạng nghiêng ngã, mọi người xung quanh đều tức giận nhưng không dám lên tiếng. Đây không phải là đối xử với Thái thượng hoàng hậu, mà là đối xử với nàng như một tù nhân. Dương Huyền Chi cảm thấy đau khổ cùng bất lực, chỉ có thể khua tay để Hiến Dung đi vào, tránh đắc tội với đám quyền thế cường đại của Tôn Tú vào lúc này.
Hiến Dung ổn định thân thể, thẳng lưng, ngẩng cao đầu bước từng bước đi vào cửa. Không sao cả, ta vẫn còn sống. Chỉ cần còn sống là còn hy vọng.
Bầu trời lúc này đã hoàn toàn tối đen, thậm chí không tìm thấy một tia sáng mờ ảo nào. Một tiếng ầm vang lên, cánh cửa nặng trịch đóng chặt sau lưng nàng, chỉ còn lại sự âm u lạnh lẽo, ẩm ướt, còn có bóng tối vô biên không bến bờ…
Dương Huyền Chi nhìn bóng lưng Hiến Dung biến mất sau cánh cửa, nước mắt ông kìm nén trước đó chảy xuống không ngừng.
Ông biết rằng cánh cửa này ngăn cách sự sống và cái chết. Khuôn mặt hiền lành dịu dàng của Thẩm Cẩm Tú dường như hiện ra trước mắt ông, ông muốn nắm lấy bàn tay ấm áp của bà và thì thầm lời cảm ơn với bà. Nếu không có Thẩm Cẩm Tú, Hiến Dung-một tiểu thư xuất thân từ một gia đình quý tộc, làm sao có thể thông thạo y thuật, làm sao con bé có thể lạc quan và kiên trì như vậy. Đây sẽ là khả năng sống sót của Hiến Dung ở nơi khủng khiếp này.
Sự kiên cường của con bé ngay lúc này quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác.
*****
*Những nơi khác mà đăng truyện này đều là hàng trộm.*