Năm Tháng Huy Hoàng - Chương Xuân Di - Chương 87: So chiêu và phá chiêu
Ánh mặt trời mới lên chiếu rọi trên quần thể kiến trúc hùng vĩ, có thể nói là to lớn đồ sộ. Bước ra khỏi điện Hiển Dương, tia nắng thật chói mắt, Hiến Dung híp mắt nhìn lên trời, mặt trời đã mọc lên rồi!
Mùa đông này vô cùng lạnh giá, những ngày âm u kéo dài thật lâu. Mưa tuyết đan xen như xối thẳng vào lòng người khiến đáy lòng cũng bắt đầu nấm mốc. Cuối cùng cũng nhìn thấy ánh mặt trời! Hiến Dung phấn khởi nhảy nhót, đem chính mình hòa vào trong những tia nắng ấm áp, nàng nhắm mắt giang tay ôm lấy vầng thái dương.
“Chữ Diệu (曜) này, hay chữ Diệu (耀) đây, cũng đều mang ý nghĩa là ánh sáng chiếu rọi.”
Bên tai truyền đến thanh âm trong trẻo thanh thúy như chuông bạc, tiểu cô nương mười hai tuổi mỉm cười dịu dàng với thiếu niên mười lăm tuổi toàn thân bẩn thỉu.
Nàng nghe thấy trong lòng mình vang lên tiếng “thình thịch” mạnh mẽ, giống như có một khe hở được mở ra ở nơi bị phong ấn chặt chẽ trong trái tim nàng và rồi ánh nắng lập tức chiếu sáng vào trong góc khuất ấy, nơi mà nàng cố tình không chạm tới. Những mẫu chuyện của quá khứ giống như hạt bụi nhảy múa trong ánh sáng, tựa như những tinh linh thỏa sức bay lượn trước mắt nàng. Nàng cứ như vậy tắm mình trong ánh nắng ấm áp, quên đi cả thân phận và quên đi những khó khăn trùng điệp ở phía trước, nàng chỉ nhìn thấy bản thân mình đang vô tư lự, còn có bóng dáng cao gầy bao phủ trong ánh sáng mặt trời đó.
“Tiểu thư, làm sao vậy?”
Hiến Dung đột nhiên mở mắt ra, hình ảnh cậu thiếu niên và tiểu cô nương không thấy nữa. Tiếng cười bên tai hầu như cũng biến mất, trước mắt chỉ còn lại cung điện trùng điệp khiến người khác cảm thấy ngột ngạt, ngăn cách hai thế giới hoàn toàn khác biệt. Nàng lắc đầu, trong lòng tự cười nhạo chính mình. Dương Hiến Dung à Dương Hiến Dung, những gì mi phải đối mặt là vấn đề sống còn kia kìa, sao lại có thể lãng phí thời gian của mình để đối mặt với ánh mặt trời ngang ngược như vậy chứ!
Hít sâu vào một hơi, để thần chí quay trở về lại ban đầu, nàng đối mặt với Xuân Nhi rồi gật đầu: “Đi thôi, đi đến Sùng Văn quán, sợ rằng Kê Thị trung đang sốt ruột đợi rồi.”
Nàng cất bước hướng về phía Sùng Văn quán, mỗi bước đi hay mỗi động tác của nàng đều hết sức uyển chuyển, thể hiện rõ phong thái của một hoàng hậu. Mỗi ngày, nàng đều đi đến tàng thư lâu Sùng Văn trong cung, để Kê Thiệu giảng giải cho nàng về những thao tác vận hành triều chính và sự phát triển của các thế lực khác nhau. Kê Thiệu thân là danh môn đời sau, nên là người ngay thẳng chính trực, rất coi trọng chính thống. Hắn hiểu rõ tình thế hiện tại nguy hiểm cỡ nào, hoàng thượng lại là một người bất tài không chỗ nương tựa, nên nhất định phải có người có thể đảm đương trọng trách để trợ giúp hoàng thượng. Xem ra hiện giờ, chỉ cần Hiến Dung không làm Giả Nam Phong thứ hai, thì nàng chính là người được lựa chọn tốt nhất.
Vì vậy, Kê Thiệu rất kỳ vọng vào nữ đồ đệ thông tuệ này nên hắn dốc hết sức truyền thụ. Mà Hiến Dung cũng như miếng bọt biển khô, tận lực hấp thu tri thức của triều chính mà trước đây nàng không hề quen thuộc và ở tàng thư lâu lật xem các loại tư liệu mà bên ngoài khó có thể tiếp xúc được. Mỗi ngày bận rộn làm cho nàng tạm thời quên đi đủ loại ưu sầu cùng phiền muộn, nàng thật sự không có thời gian để ăn năn hối hận hay tự thương hại mình nữa.
*****
Cũng dưới bầu trời trong xanh ấy, có người đang ngẩn ra nhìn tấm biển dưới ánh mặt trời, trên tấm biển là ba chữ vàng “Nguyệt Dung Các” đang tỏa sáng rực rỡ.
“Đệ muốn đi thì tự mà đi, ta không đi!”
Nghe thấy những lời phàn nàn sau lưng, A Diệu nhìn tấm bảng thở dài, quay đầu tức giận nhìn A Lạc đang ngồi trên hành lang: “Mọi người trong đoàn múa đều đang đợi ở cửa, nếu huynh không đi, ta làm sao có thể bịa ra một lý do cho huynh?”
Lệnh rút lui được ban hành một cách vội vàng, Đại Thiền Vu chỉ cho mọi người một ngày để thu dọn, A Lạc biết được tin tức rút lui vẫn liên tục giận dỗi với A Diệu.
A Lạc nhảy xuống bậc thang, nổi giận đùng đùng chỉ tay vào A Diệu: “Đệ nói muốn cứu nàng ấy! Bây giờ đã qua một tháng, ngoại trừ đi gặp Dương Huyền Chi, cũng chưa thấy đệ có hành động gì. Còn không bằng để ta tự mình đi vào chỗ chết cho rồi!”
“Chỉ dựa vào vũ lực thì để ta xem huynh có thể xông qua được bao nhiêu cánh cửa!” A Diệu tức giận trừng mắt nhìn hắn, “Năm năm trước nàng ấy không phải hoàng hậu, chúng ta đã khó thoát thân khi gặp nàng rồi, huống hồ chi bây giờ!”
A Lạc sửng sốt, hắn phản ứng một lúc rồi kinh ngạc hỏi: “Đệ đã biết?!” Hắn chưa từng nói với A Diệu rằng Dương Hiến Dung chính là tiểu cô nương năm năm trước.
A Diệu chợt ý thức được mình lỡ miệng, dứt khoát không giấu diếm A Lạc nữa mà trịnh trọng gật đầu: “Buổi tối trước khi nàng ấy nhập cung, ta đã đến gặp nàng.”
Rất nhiều suy nghĩ trong đầu A Lạc lập tức hiện ra, hắn muốn hỏi A Diệu, lại không biết nên mở lời như thế nào. Sau một hồi im lặng, hắn chỉ quay đầu đi, giả vờ đọc những từ trên tấm bảng. Một bầu không khí ngượng ngùng khó tả dần dâng lên và tràn ngập giữa hai người.
Thật lâu sau, A Diệu vỗ bả vai A Lạc: “Đi thôi, ta đã sắp xếp xong hết rồi, chúng ta rất nhanh sẽ trở lại thôi.”
A Diệu nhặt hành lý và đi về phía cửa. A Lạc nhìn theo bóng lưng của A Diệu, dáng người cao gầy và thẳng tắp của A Diệu rất kiên quyết và cứng rắn, giống như một cây tùng vững chãi. Đột nhiên A Lạc cảm thấy, người gần gũi hơn huynh đệ ruột thịt của hắn, giờ đây lại có một chút cảm giác xa lạ.
*****
Đoàn múa Bạch Vũ đã biểu diễn ở Lạc Dương hơn bốn tháng, cuối cùng cũng lên đường trở về Tây Vực. Sau khi lưu lại Lạc Dương một khoảng thời gian lâu như thế, đoàn múa Bạch Vũ đã cống hiến cho người dân trong kinh thành những màn biểu diễn rất đặc sắc và kỳ lạ. Trên đường ra khỏi thành, khắp nơi đều có người đi đường vẫy tay chào tạm biệt đoàn múa, so với phiên vương rời kinh còn náo nhiệt hơn.
Sau khi ra chiếu chỉ truyền mệnh lệnh cho những phiên vương, xung quanh cổng thành Lạc Dương nhất thời náo nhiệt, mỗi ngày đều có lượng lớn xe ngựa xa hoa chạy ra khỏi thành. Khi đoàn múa Bạch Vũ rời đi, thì cũng chính là ngày Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh rời khỏi kinh thành. Cả đoàn múa và Tư Mã Dĩnh đều đang đi về phía bắc và họ tình cờ gặp nhau tại cổng Đại Hạ ở phía bắc kinh thành. Đương nhiên, đoàn múa phải tránh đường sang một bên để chờ thân vương đi trước.
Đội ngũ đi cùng với Tư Mã Dĩnh mang khí thế hùng mạnh to lớn. Đất phong của hắn ban đầu là ở Thành Đô, nhưng Giả Nam Phong đã ra lệnh cho hắn đến Nghiệp Thành canh giữ, là nơi tiếp giáp với người Hung Nô. Vì lẽ đó, hắn bèn bố trí một triều đình nhỏ và quân đội của mình ở thị trấn quan trọng phía bắc này. Sau vài năm dưới sự sắp xếp của hắn, Nghiệp Thành đã vượt qua cả Tấn Dương và trở thành thành thị lớn nhất ở phía bắc của triều Tấn.
Người của đoàn múa Bạch Vũ phải đợi rất lâu mới đến lượt mình rời thành. Với văn thư được Triệu Vương đặc biệt phê duyệt, đoàn múa đã vượt qua cuộc kiểm tra một cách suôn sẻ và tiến về phía bắc. Họ rời đi chưa đầy mười ngày thì hoàng thành Lạc Dương đã xảy ra đại biến.
*****
Bông tuyết rơi như xơ bông, gió mạnh như đao, Hiến Dung vội vàng chạy tới chỗ ở của lương nhân mà nàng mới phong – Bình Lạc Uyển. Đây là một khu vườn tương đối độc lập trong cung, có một số tòa nhà chuyên dùng để bố trí cho những mỹ nhân này hầu hạ hoàng đế, năm sáu người cùng ở trong một cung.
Trước khi đến cổng khu vườn, họ đã nghe thấy tiếng khóc thảm thiết. Hiến Dung vội vàng bước vào bên trong, chỉ thấy trên đất ngổn ngang, bát đĩa vỡ vụn khắp nơi, chất lỏng màu đen đặc quánh kia đang chảy trên mặt đất, còn có rất nhiều nữ nhân ôm bụng đau đớn quằn quại trên sàn. Đội lính thì ráo riết tìm kiếm xem có bỏ sót bất kỳ con cá nào lọt lưới không. Có một cung nữ đang bị bọn lính giữ chặt thân thể, chúng bóp miệng nàng ấy và đổ thuốc vào trong. Người cung nữ đó bị sặc và ngạt đến mức không thở nổi, vùng vẫy giãy giụa như cá chết, vô cùng thống khổ.
Hiến Dung nghiêm nghị hét lớn: “Dừng tay lại ngay!”
Nàng bước nhanh về phía những binh lính trước mặt, bất chấp sự chênh lệch về sức mạnh, nàng kéo người cung nữ đang bị chúng giữ chặt ra. Thấy nàng ăn mặc sang trọng quyền quý, đám binh lính kia không dám đối đầu, đành rút tay về.
“Thần thỉnh an Hoàng hậu nương nương.”
Một giọng nói kiêu ngạo vang lên, Hiến Dung quay đầu lại, liền thấy một người mặc áo đạo sĩ hướng nàng hành lễ, chính là Tôn Tú!
Hiến Dung tức giận đến toàn thân phát run: “Tôn tiên sinh, đây là hậu cung, ngoại thần không được tùy tiện bước vào, càng không được ở đây hành hung!”
Tôn Tú kiêu căng hừ một tiếng: “Triệu Vương là vì hoàng hậu nương nương mà lo nghĩ. Những nữ tử này xuất thân quá kém, không thể để bọn họ sinh con nỗi dõi cho hoàng thất được.”
Hiến Dung cười khẩy: “Vậy bổn cung phải chọn những nữ tử xuất thân từ các gia đình quý tộc để lấp đầy hậu cung rồi.”
Tôn Tú không chút do dự nhìn thẳng Hiến Dung, chậm rãi nói: “Huyết thống của bệ hạ nhất định phải từ hoàng hậu mới là chính thống.”
Thủ hạ báo cáo với Tôn Tú, mọi việc đã hoàn thành xong. Tôn Tú tùy ý hành lễ với Hiến Dung rồi dẫn người nghênh ngang rời đi. Lồng ngực của Hiến Dung không ngừng phập phồng lên xuống, hai tay nàng run rẩy. Đường đường là hậu cung lại tùy ý để những người này hoành hành ngang ngược, hoàng quyền đã yếu tới mức nào rồi! Hiến Dung hận sức lực mình quá yếu, tùy ý để những người này giẫm đạp lên, tùy ý để họ bắt chẹt tính mạng. Mà nàng làm hoàng hậu làm gì, nào có bản lĩnh của bậc mẫu nghi thiên hạ đâu!
Nàng không còn cách nào khác ngoài việc phải nhẫn nhịn chịu đựng. Hiến Dung cố gắng hít một hơi thật sâu, đè nén sự tức giận trong lồng ngực, nàng bảo cung nữ nội thị thu dọn đống hỗn loạn đầy đất và truyền thái y đến. Chẩn đoán của thái y phù hợp với chẩn đoán của nàng: Trong chén thuốc có một nửa kỷ tử, hạt sồi, hoa nấm ô, còn có thêm xạ hương. Đây là canh tuyệt tử độc ác nhất, uống hết một chén như vậy, từ nay về sau tử cung bị lạnh cả đời, khả năng mang thai cực kỳ thấp. Nhìn các nữ nhân kêu khóc bi thương khắp nơi trên đất, Hiến Dung vô cùng hoảng sợ!
“Cầu xin bệ hạ hãy cứu chúng thần!”
Bọn họ khóc lóc thảm thiết, y phục đều rách rưới, Tư Mã Trung trở về hậu cung, những gì ông ta nhìn thấy chính là sự bi thương như vậy. Tất cả các phi tần đều tập trung trong điện Hiển Dương, sắc mặt mỗi người đều nhợt nhạt rã rời, khi nhìn thấy Tư Mã Trung, họ đồng loạt quỳ xuống khóc lóc nỉ non. Biết được việc Triệu Vương đã làm, Tư Mã Trung thoạt đầu giật mình sửng sốt, tiếp theo là tay chân luống cuống chẳng biết làm thế nào.
Một người mới được sủng ái quỳ gối khóc lóc tiến lên, ôm lấy đùi Tư Mã Trung: “Đây là chuyện hậu cung của hoàng thượng, ngoại thần lại tùy ý chen chân, hãm hại phi tần. Tính mạng của những người như chúng thần làm sao giữ được đây?”
Tư Mã Trung vội ngồi phịch xuống đất, kêu gào khóc lớn: “Không có cách nào khác được, ta ngăn cản Triệu Vương không được. Ngươi muốn gì, ta sẽ bồi thường cho ngươi. Ta cho ngươi trang sức được không, các ngươi làm ơn hãy buông tha cho trẫm đi.”
Những nữ nhân đó nhìn thấy nước tiểu của Tư Mã Trung, khóc càng thảm thiết hơn. Trong đại điện chỉ toàn tiếng khóc, nháo đến mức Hiến Dung đau cả đầu. Nàng hoàn toàn hiểu được, người như Tư Mã Trung không thể tin cậy được. Không phải ông ấy không muốn làm, mà là do không có năng lực.
Bây giờ bố trí thêm nhiều cung nhân cũng vô ích, Tư Mã Luân nhất định sẽ ra tay lần nữa. Hơn nữa, sau sự việc này, ai cũng sợ khi phải hầu ngủ hoàng đế. Hiến Dung đành phải để Tư Mã Trung lần lượt ngủ với bốn phi tần, người duy nhất chưa từng uống canh tuyệt tử là Nhụy Nhi do Tư Mã Luân cử đến, nhưng Hiến Dung biết, nàng ta sẽ không bao giờ dám mang thai. Mỗi ngày đến thỉnh an, các cô nương ấy đều mang nét mặt lo lắng và buồn bã, cả hậu cung đều chìm trong trạng thái ảm đạm và thê lương.
Hiến Dung đề xuất với Tư Mã Trung rằng, nàng muốn gặp phụ thân của mình, giờ đây người duy nhất có thể cho nàng lời khuyên chỉ có cha nàng mà thôi. Tư Mã Trung hoàn toàn đồng ý, nhưng không ngờ đến giờ ăn tối, Tư Mã Trung cười nói với nàng rằng, yêu cầu của nàng đã bị Môn hạ tỉnh từ chối. Môn hạ tỉnh là cố vấn riêng của hoàng đế và có quyền bác bỏ các chỉ dụ của hoàng thất. Người trong hậu cung mỗi năm chỉ được gặp gia đình ruột thịt của mình một lần, còn hoàng hậu mỗi tháng chỉ được gặp mặt gia đình một lần. Bây giờ thời điểm vẫn chưa đến, không thể có ngoại lệ được.
Hiến Dung oán hận phản bác: “Vậy tại sao hoàng hậu trước muốn gặp bất cứ lúc nào là gặp vậy?” Người nhà họ Giả đi nghênh ngang trong chốn hậu cung, muốn đến lúc nào cũng được, ai dám ngăn cản đó?
Tư Mã Trung muốn giải thích với ái thê mới cưới nhưng câu từ lại lộn xộn, không thể giải thích rõ ràng. Hiến Dung mệt mỏi đối phó vài câu rồi trở về tẩm điện của mình. Nàng ngồi buồn xo dưới ánh đèn, xung quanh đều yên tĩnh đến chết người, nhưng nàng lại phảng phất nghe được trong mỗi góc đều có tiếng cười nhạo. Rõ thật là không biết tự lượng sức mình, trên triều đình nhiều danh sĩ đại thần đọc thi thư như vậy đều khúm núm với Tư Mã Luân. Còn nàng, một nữ tử yếu đuối vừa bước vào vòng xoáy thì có năng lực gì chống đối? Điều duy nhất đang chờ đợi nàng, chỉ có mặc cho người ta xâu xé mà thôi.
Tẩm điện to như vậy, mang khung cảnh hoa lệ đến thế nhưng lại khiến nàng có cảm giác trống rỗng và lạnh đến thấu xương. Hiến Dung ngồi ôm đầu gối nhìn ra ngoài cửa sổ. Những tấm lưới cửa sổ hình thoi giống như những tấm lưới trong lồng chim, còn nàng giống như một con chim yến bị chụp trong lồng, chỉ biết vỗ đôi cánh yếu ớt mà không hề có chút đe dọa nào. Hiến Dung mở khung cửa sổ ra, gió lạnh mang theo tuyết lùa vào mặt nàng, không khí lạnh rét đến bức người.
Cái lạnh này có gì đáng sợ, ít nhất nàng vẫn có thể cảm nhận được hơi thở của sự sống. Con người sống trên đời này vốn không đấu được trời, không đấu được đất. Điều đáng sợ ở đây là người phải đấu với người kìa.
Làm thế nào mà nàng đã từng bước có được vị trí như ngày hôm nay? Chính là do người đó. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên nhìn thấy hắn, số phận của nàng đã bị kéo bởi một sợi dây vô hình, nàng khó tránh khỏi rơi vào vực thẳm tuyệt vọng. Lời yêu như thuốc độc đã đục khoét trái tim nàng, khiến nàng nhất thời xúc động mà gây ra sai lầm lớn. Hận thù còn ích gì đây, bây giờ nàng không còn đường để quay đầu, vậy nên phải nhắm mắt mà sống tiếp, cho dù thể chất và tinh thần của nàng có kiệt quệ và trước mắt sẽ đầy rẫy những thương tích đi chăng nữa. Nếu thời điểm đó nhất định phải đến, dù nàng không cam chịu đến đâu, nàng cũng chỉ có thể chấp nhận, chỉ hy vọng gia đình nàng có thể được bảo toàn.
*****
Sắc trời tối sầm, tuyết lớn rơi lả tả trong không trung. Tuyết rơi xuống đất đóng thành băng khiến mặt đường cực kỳ trơn trượt và khó đi. Thời tiết xấu như thế, vậy mà hoàng hậu vẫn kiên trì đi đến Sùng Văn quán, làm cho những hộ vệ phụ trách theo dõi hoàng hậu đều kêu khổ không ngừng. Kiệu đã tới Sùng Văn quán, Thị trung Kê Thiệu vẫn như thường ngày tự mình ra cửa nghênh đón và kính cẩn cung nghênh Hiến Dung vào trong.
Tư Mã Luân phái hộ vệ tới đây mỗi ngày, bọn họ đều phải ở chỗ này lãng phí một canh giờ, cứ trốn ở góc tường nghe ngóng trong phòng đối thoại nhàm chán về chính kinh văn sử, sau đó mỗi tối đều phải báo cáo lại. Thời tiết quỷ quái như hôm nay, đứng không đến một chén trà đã khiến lỗ tai người ta đông cứng mà vẫn không thể xoa tay dậm chân, vì nếu phát ra động tĩnh sẽ quấy nhiễu người trong phòng, thật sự là tám đời xui xẻo mới gặp phải chuyện khổ sai này. Cũng may người hầu của Kê Thiệu đi ra tiếp đón mọi người đến nhĩ phòng sưởi ấm và uống chén trà nóng. Đám hộ vệ nhìn nhau vài lần, lại nghe được trong phòng truyền đến tiếng đọc sách không hề mới mẻ, không hẹn mà cùng tràn vào nhĩ phòng.
Trong Sùng Văn quán đặt tầng tầng giá sách, có cả những cuộn sách cổ, trong lò than đồng cổ đang đốt than vang lên tiếng nổ tí tách nho nhỏ. Hiến Dung và Kê Thiệu ngồi đối diện trên trường kỷ với vài cuộn giấy đặt ở giữa bàn, Kê Thiệu rung đùi gật gù đắc ý đọc bài của Giả Nghị một cách du dương. Phía ngoài phòng vang lên ba tiếng gõ, Kê Thiệu đặt cuộn giấy xuống, gật đầu với Hiến Dung. Hiến Dung vội vàng bước xuống, chạy lên tầng hai. Ở phía sau, giọng đọc của Kê Thiệu ngày càng vang dội.
Trên tầng hai còn có nhiều giá sách hơn, phía sau một loạt giá sách dựa vào tường xuất hiện một người, chiếc áo khoác lông cừu màu đen dày nặng không che giấu được dáng người mảnh khảnh đó, cùng với lông mày lưỡi mác sáng ngời, phong thái xuất chúng, trên khuôn mặt tao nhã còn mang theo ý cười, đôi mắt sâu thẳm thêm chút thần thái điềm tĩnh. Nhìn thấy Hiến Dung, y khom người hành lễ, khẽ gọi một tiếng: “Hoàng hậu nương nương.”
Hiến Dung đè nén sự xúc động, nàng đáp lễ: “Tề Vương Điện hạ.”
Tư Mã Luân bảo các phiên vương về nước, các vị phiên vương không muốn đắc tội Triệu Vương vào lúc này nên phần lớn đều ngoan ngoãn khởi hành. Duy chỉ có Tư Mã Quýnh không chịu tuân theo, y lấy lý do mẫu thân vừa qua đời, cần ở lại chịu tang để giữ đạo hiếu. Cũng may Tư Mã Quýnh tay không binh mã, chỉ chung tình với phong cảnh sơn thủy và cũng không kết giao với quần thần, nên Tư Mã Luân đối với y coi như yên tâm và không thúc giục y rời kinh.
Không đợi Tư Mã Quýnh lên tiếng, Hiến Dung vội vàng hỏi: “Phụ thân của ta gần đây như thế nào rồi?” Nàng ở trong lồng giam này một mình chống chọi và chiến đấu quá lâu rồi, nàng rất cần đồng minh trợ giúp và an ủi, huống chi vị đồng minh này là do phụ thân nàng ủy thác phái đến.
Tư Mã Quýnh thở dài: “Mọi chuyện đều ổn, Dương Thị lang chỉ là lo lắng cho người thôi. Gần đây tinh thần ông ấy có chút xấu đi.”
Mũi Hiến Dung chua xót, không khỏi muốn khóc. Hơn một tháng nay, mỗi ngày nàng thường xuyên sợ hãi lo lắng, nàng muốn có cha ở bên cạnh làm chỗ dựa để có thể bàn bạc trao đổi. Nhưng Tư Mã Luân tuyệt đối sẽ không cho phụ thân nàng vào cung, thế nên Hiến Dung chỉ có thể nghĩ ra chiến thuật vòng vo này.
Hiến Dung thành khẩn hành lễ: “Tề Vương có thể giúp đỡ nhà ta lúc này, Hiến Dung thật sự rất cảm kích.”
Tư Mã Quýnh nhẹ nhàng quay người tránh đại lễ của nàng: “Không cần cảm ơn, ta nợ Thị lang việc này.” Nhìn thấy vẻ mặt khó hiểu của Hiến Dung, y đổi chủ đề, “Lúc ta mười bốn tuổi, sau khi rời Lạc Dương, đích thân Thị lang đã đến tiễn ta và nói chuyện với ta rất nhiều.”
Hiến Dung ngạc nhiên một lúc. Nàng chưa bao giờ nghe cha mình nhắc đến điều đó, nhưng lúc ấy nàng chỉ là đứa trẻ năm tuổi.
Nhắc đến quá khứ, trong mắt Tư Mã Quýnh hiện lên một tia buồn bã và cay đắng: “Lúc đó, phụ thân ta qua đời khi ta còn quá nhỏ, mẫu thân vì chuyện ta bị trục xuất khỏi kinh thành mà lâm trọng bệnh. Gia đình ta lúc ấy chỉ tràn ngập sự đau buồn, trong lòng mọi người đều nơm nớp lo sợ. Tất cả các đại thần trong triều đình đều bị dọa dẫm mà tránh xa ta, chỉ có duy nhất phụ thân của người không quan tâm những lời chỉ trích mà đến tiễn đưa ta. Ông ấy có nói với ta một điều mà ta luôn ghi nhớ mãi trong lòng.” Tư Mã Quýnh ngước mắt lên nhìn Hiến Dung, giọng nói của y ấm nhuận dịu dàng nhưng đầy nghị lực, “Có nhiều chuyện khi đối mặt, người sẽ cảm thấy như trời đất đều đổ sập xuống. Nhưng năm năm sau nhìn lại, chẳng phải là vấn đề gì to tát nữa cả.”
Hiến Dung ngẩng đầu nhìn tuyết rơi dày đặc bên ngoài cửa sổ, nàng nhẹ giọng đọc như đã thuộc lòng từ lâu: “Cho nên, khi ông trời sắp giao cho người nào đó một trọng trách. Trước tiên, sẽ khiến trong lòng họ đau khổ, khiến thân xác họ mệt mỏi, khiến họ chịu đói chịu khát đến mức cơ thể yếu gầy, khiến họ nếm mùi khổ cực bần hàn, khiến mỗi việc họ làm đều bị rối tung, đều không như ý. Từ đó sẽ khiến họ lo sợ cảnh giác mà cố gắng rèn luyện tâm trí, khiến họ kiên nhẫn hơn nữa, tăng thêm cho họ những tài năng chưa có đủ và rồi họ sẽ đạt được những lợi ích từ những gì họ không thể làm được.”
Tư Mã Quýnh thấy nàng hiểu được ý nghĩa của những lời này, y vui vẻ gật đầu. Gác mái lạnh lẽo, áo choàng lông nhung của nàng bị vứt ở tầng dưới, lúc này đây nàng cảm thấy rùng mình, không khỏi run rẩy. Tư Mã Quýnh định cởi chiếc áo khoác lông thú y đang mặc để đưa cho nàng nhưng sau đó y lại rụt tay lại. Y nhìn quanh, thấy một chậu than bên cạnh, liền bước tới dùng đá đánh lửa đốt vài mớ mùn cưa để nhóm cháy mớ than trong chậu.
“Ta cùng phụ thân của người tiếp xúc hơn mười năm nay, ông ấy đã dạy dỗ ta rất nhiều và cũng là ân sư của ta.” Y dùng cái khoan khuấy đống lửa than để ngọn lửa cháy sáng hơn, ánh mắt ấm áp nhìn Hiến Dung. “Cho nên, nếu người có lời muốn chuyển ra ngoài cung thì người có thể tin tưởng ta.”
Nhắc tới mục đích lần gặp mặt này, Hiến Dung cảm thấy tiếc nuối, nước mắt trong mắt lấp lánh như sương mù. Nàng cúi đầu thật sâu trước Tư Mã Quýnh và nói với chất giọng dịu dàng chứa đầy sự bi thương: “Đó là do ta đã quá tùy hứng, quá liều lĩnh, không chịu nghe theo lời khuyên của cha, hiện tại rơi vào hoàn cảnh này ta tự làm tự chịu, có hối hận cũng không được ích gì nữa rồi. Ta sợ kiếp này khó gặp lại cha nên xin Tề Vương chuyển lời lại với ông rằng, kiếp này ta không thể làm tròn lòng hiếu thảo, chỉ có thể bù đắp cho ông ở kiếp sau. Nếu có chuyện gì ngoài ý muốn xảy ra với ta thì nhà họ Dương cũng sẽ không thể thoát khỏi. Xin cha hãy phòng ngừa chu đáo và thu xếp trước mọi chuyện.”
Nước mắt nàng trào ra, lớp sương mù trong ánh mắt ấy khiến người khác phải xót xa. Cuối cùng, nàng nghẹn ngào, hít một hơi thật sâu để kìm nén nỗi đau buồn.
Tư Mã Quýnh đứng thẳng lưng với thân hình cao và mảnh khảnh, y bước đến gần nàng và đưa tay ra, như muốn chạm vào vai nàng, nhưng y chỉ đưa tay ra được nửa chừng rồi cũng rụt lại, vẻ thương hại vốn có trên mặt y biến thành vẻ nghiêm nghị: “Lẽ nào hoàng hậu định vứt bỏ mọi chuyện như vậy sao?”
Hiến Dung ngẩng đầu lên ngăn dòng nước mắt, nàng khịt mũi cười khổ: “Bằng không thì phải làm sao bây giờ? Ta làm sao có thể đấu lại với Tư Mã Luân?”
Y chăm chú nhìn nàng, trong đôi mắt không đáy của y như có ngọn lửa đang thiêu đốt: “Mọi người đều biết, ai nắm giữ hoàng đế thì có thể điều khiển hoàng đế và ra lệnh cho các nước chư hầu. Người có thể trở thành Giả hoàng hậu thứ hai mà.”
Hiến Dung lắc đầu, trong mắt chứa sự cam chịu: “Ta không thể làm như Giả hoàng hậu, quyền lực không phải là thứ ta muốn. Hơn nữa, Giả hậu đã hoạt động nhiều năm mới có thể một mình thống trị cung điện, tình huống của ta lại cấp bách như vậy thì không thể nào. Ta cũng không được phép làm Giả hậu thứ hai.”
Than trong chậu đang cháy, nhiệt độ nơi này từ từ tăng lên. Tư Mã Quýnh chắp hai tay sau lưng, nhẹ nhàng hừ nói: “Còn chưa đi đến cuối con đường mà lại dễ dàng bỏ cuộc như vậy. Thế mà cha người còn nói người có chính kiến rất kiên định, không thể so sánh với những nữ nhân bình thường được. Xem ra lời ông ấy nói cũng chỉ là nói quá lên mà thôi.”
Hiến Dung bị Tư Mã Quýnh chọc tức, ánh mắt nàng lóe lên nhìn y.
Tư Mã Quýnh âm trầm nhìn vào mắt Hiến Dung, y cười như không cười: “Đừng quên, người còn có một đứa cháu trai.”
“Tư Mã Tang còn nhỏ như vậy, sao ta có thể nhẫn tâm đẩy đứa trẻ vào tình thế nguy hiểm được chứ?” Không phải Hiến Dung chưa từng cân nhắc đến chuyện này, mà là một khi Tư Mã Tang được phong làm Hoàng Thái tôn, thì mới bốn tuổi đứa trẻ này sẽ trở thành cái gai trong mắt Tư Mã Luân và có thể chết bất cứ lúc nào.
Nhìn thấy ghế dài được trải đệm dày êm ái, Tư Mã Quýnh bình tĩnh ngồi xuống ghế, lễ độ đưa tay ra hiệu về phía đối diện bàn, mời Hiến Dung ngồi xuống. “Người cho rằng nếu không đẩy đứa bé ấy vào tình thế nguy hiểm như hiện nay, Tư Mã Luân sẽ thả đứa bé ấy đi sao? Thân là con trai của Thái tử trước kia, ngay ở thời khắc đứa trẻ ấy sinh ra đã xác định số phận của kiếp này rồi.”
Cũng giống như Hiến Dung nàng, thời điểm nàng trở thành vị hoàng hậu vô dụng, số phận của nàng đã được định sẵn không còn lối thoát. Hiến Dung đang nghĩ như vậy liền ủ rủ chán nản ngồi xuống ghế: “Đây chính là ý của cha ta sao?”
*****
Chú thích:
– Nhĩ phòng: là một ngôi nhà nhỏ được xây cạnh nhà chính theo kiến trúc Hán. Hai bên phòng chính có một hoặc hai phòng có chiều sâu và chiều cao nhỏ hơn gian nhà chính, giống như hai cái tai treo ở hai bên phòng chính nên gọi là nhĩ phòng (nhĩ nghĩa là tai).
– Kỷ tử